dạy nhân hóa cho học sinh lớp 3

2.2/ Phân hóa các tác động qua lại giữa các học sinh như: (Tổ chức đàm thoại trong lớp - Học theo cặp - Học theo nhóm). Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức. RÈN KĨ NĂNG TÍNH NHANH , TÍNH NHẨM CHO HỌC SINH LỚP 3. A. ĐẶT VẤN ĐỀ Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam. 54 + 2 x 54 + 3 x 54 + 5 x 54 (nhân nhẩm với 11) * Dạng 3: Vận dụng tính chất cơ bản của phép tính Bài tập Toán nâng cao lớp 3 là tài liệu tham khảo hay dành cho quý thầy cô và các bạn học sinh lớp 3 nhằm củng cố kiến thức và luyện tập môn Toán với các dạng bài tập đặt ẩn, các bài toán đố Các em thử làm thêm các bài Toán cực khó này nhé! Chúc các bạn học Mẹ luôn yêu thương và hy sinh, lo lắng mọi thứ cho con. Từ đáy lòng, con thầm biết ơn mẹ rất nhiều. Nhân ngày Phụ nữ Việt Nam, con chúc mẹ luôn là người mẹ hạnh phúc, sống lâu trăm tuổi cùng con cháu. 5. Nhân ngày 20/10, con chúc mẹ luôn mạnh khỏe và hạnh phúc trọn vẹn. Thấu hiểu học sinh giúp cho giáo viên cá nhân hóa được lộ trình học tập của từng em. Dành cho học sinh từ 3-11 tuổi với hai chương trình Cosmos (học trên lớp) và Virtual (học trực tuyến), từng em sẽ được kiểm tra tổng quát về năng lực đầu vào ngay khi đăng ký. Was Ist Besser Single Oder Beziehung. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHÉP NHÂN, PHÉP CHIA CÁC SỐ TỰ NHIÊN THEO SÁCH GIÁO KHOA TOÁN LỚP 3” A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI - Trọng tâm và hạt nhân của chương trình toán ở Tiểu học là nội dung Số học. Trong đó phép nhân, phép chia các số tự nhiên là nội dung cơ bản, quan trọng trong nội dung số học. Bởi vì, nhiệm vụ trọng yếu của môn toán Tiểu học là hình thành cho học sinh kỹ năng tính toán – một kỹ năng rất cần thiết trong cuộc sống, lao động và học tập của học sinh. Vì vậy giáo viên cần tìm hiểu, nghiên cứu để có biện pháp dạy tốt cho học sinh bộ môn này. - Hiện nay chương trình sách giáo khoa mới ở Tiểu học đang được đưa vào sử dụng trong toàn quốc. Sách giáo khoa Toán ở Tiểu học có rất nhiều đổi mới về cấu trúc nội dung, cách thể hiện nội dung nhằm đổi mới phương pháp dạy học. Rất nhiều giáo viên tiểu học vẫn chưa cập nhật vấn đề này, dẫn đến việc dạy học Toán ở Tiểu học nói chung, việc dạy nội dung phép nhân phép chia các số tự nhiên nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học. - Để dạy tốt nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên trước hết giáo viên cần nắm được bản chất Toán học của những kiến thức này. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có không ít giáo viên Tiểu học không nắm vững bản chất Toán học của phép nhân, phép chia các số tự nhiên. Như chúng ta đã biết Có kiến thức toán học cơ bản của chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học về kiến thức đối với giáo viên. Cụ thể, giáo viên Tiểu học phải Hiểu đúng đắn các khái niệm, định nghĩa Toán học; có khả năng chứng minh các quy tắc, công thức, tính chất Toán học được dạy ở Tiểu học dự trên Tóan học hiện đại; có khả năng giải bài tập toán ở Tiểu học tốt thể hiện ở khả năng phân tích tìm tòi lời giải, khả năng trình bày bài một cách logic, chặt chẽ và khai thác bài toán sau khi giải … - Vì vậy giáo viên cần nắm được cấu trúc nội dung của phép nhân, phép chia các số tự nhiên trong chương trình Toán tiểu học, nội dung và cách thể hiện nội dung các phép nhân, phép chia các số tự nhiên. Bên cạnh đó giáo viên nắm được phương pháp dạy học các nội dung này theo hướng đổi mới về phương pháp dạy học Toán. Điều này giúp cho việc dạy học phép nhân , phép chia các số tự nhiên đạt chất lượng cao hơn. * Vì những lý do trên, đồng thời để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho bản thân mình, tôi đã chọn đề tài “Biện pháp giúp học sinh học tốt phép nhân, phép chia các số tự nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3”. II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cứu - Giúp học sinh học tốt phép nhân, phép chia các số tự nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3. 2. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp nghiên cứu lí luận - Tìm hiểu phương pháp dạy học môn toán và nắm vững nội dung, chuẩn kiến thức sách giáo khoa Toán lớp 3. - Hiểu về nội dung cách thể hiện nội dung phép nhân, phép chia các nội dung này theo hướng đổi mới về phương pháp dạy học Toán. b. Phương pháp quan sát - Quan sát sự chú ý, tích cực học tập, khả năng ghi nhớ và giải đúng bài tập theo từng tiết dạy phép nhân, phép chia số tự nhiên theo từng đối tượng học sinh ở lớp. c. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm - Tổng kết kinh nghiệm trong quá trình tìm hiểu và vận dụng phương pháp dạy Toán về nhân chia theo sách giáo khoa Toán 3, đánh giá và khái quát, kinh nghiệm qua trao đổi cùng đồng nghiệp trên nhiều đối tương học sinh ở những lớp khác nhau. d. Thực nghiệm giáo dục - Thực nghiệm điều tra Tìm hiểu về những lỗi học sinh hay mắc phải trong quá trình học phép nhân, phép chia số tự nhiên theo sách giáo khoa Toán 3. - Thực nghiệm tìm tòi Tìm hiểu những vần đề dẫn đến việc học sinh hay gặp khó khăn và những sai lầm mắc phải khi học phép nhân, chia…để định hướng có biện pháp giúp các em học tốt hơn. - Thực nghiệm giảng dạy Nghiên cứu ứng dụng những biện pháp giúp học sinh học tốt phép nhân, phép chia vào trong giảng dạy ở khối lớp 3 Trường Tiểu học An Thạnh 1 và xác định hiệu quả ứng dụng của hoạt động dạy học toán theo đề tài. - Thực nghiệm kiểm tra Kiểm tra qua hoạt động học tập của học sinh, qua các lần kiểm tra ở các tiết học và các lần kiểm tra định kì và sự nâng lên về hiệu quả của việc sử dụng biện pháp giúp học sinh học tốt phép nhân, phép chia… III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI - Giúp học sinh khối lớp 3 của trường Tiểu học An Thạnh 1 học tốt hơn về phép nhân, phép chia các số tự nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3 IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN - Chọn đề tài. - Lập đề cương nghiên cứu. - Đọc, thu nhập tài liệu. - Thâm nhập thực tế, ứng dụng thực hành. - Hoàn thành sáng kiến. B. NỘI DUNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI Để giúp giáo viên Tiểu học hiểu rõ hơn cơ sở của việc lựa chọn và sắp xếp các nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên, đồng thời giúp giáo viên biết được định hướng của việc lựa chọn và tận dụng các phương pháp dạy học đối với các nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên tôi xin trình bày tóm tắt các vấn đề sau * Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học 1. Tri giác - Tri giác mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và tri giác mang tính không chủ định. - Khi tri giác, sự phân tích một cách có tổ chức và sâu sắc ở học sinh lớp đầu còn yếu. - Ở đầu cấp, tri giác của trẻ thường gắn với hành động, hoạt động thực tiễn của trẻ. - Tính xúc giác thể hiện rõ khi tri giác những gì trực quan, rực rỡ, sinh động thường dễ gây được ấn tượng tích cực cho trẻ và được trẻ tri giác tốt hơn. 2. Chú ý Chú ý có chủ định còn yếu, chú ý không chủ định phát triển. Những gì mang tính mới mẻ, rực rỡ, bất ngờ, khác thường dễ dàng lôi cuốn sự chú ý của học sinh. 3. Trí nhớ - Trí nhớ trực quan – hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ -logic. - Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế - Học sinh không xác định được mục đích ghi nhớ, không biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa. - Những thông tin mà học sinh được tiếp xúc từ nhiều giác quan sẽ giúp các em ghi nhớ nhanh hơn và nhớ lâu hơn. 4. Tư duy - Tư duy cụ thể mang tính chất hình thức, dựa vào đặc điểm của đồ dùng trực quan. - Học sinh thường dự vào những đặc điểm bề ngoài của sự vật, hiện tượng để khái quát hoá. - Hoạt động phân tích – tổng hợp còn sơ đẳng, chủ yếu được tiến hành khi tri giác trực tiếp các đối tượng trực quan. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” 2. Yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là “Dạy học dựa trên cơ sở tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Thông qua hoạt động học tập này, học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập, tự trải nghiệm khám phá, phát hiện vấn đề và tự chiếm lĩnh kiến thức”. 3. Giới thiệu một số phương pháp dạy học thường được sử dụng trong dạy học Toán ở Tiểu học Căn cứ vào đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học, đặc điểm các kiến thức Toán học và phương pháp nhận thức Toán học, các phương pháp dạy học thường được sử dụng trong dạy học Toán ở Tiểu học gồm phương pháp trực quan, phương pháp thực hành – luyện tập, phương pháp gợi mở – vấn đáp, phương pháp giảng giải – minh hoạ. Bên cạnh đó, để thực hiện định hướng đổi mới phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học, hiện nay người ta chú trọng sử dụng các phương pháp dạy học theo phương hướng phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của người học các phương pháp này gọi chung bằng thuật ngừ “phương pháp tích cực”. III THỰC TRẠNG TRONG DẠY HỌC PHÉP NHÂN, PHÉP CHIA CÁC SỐ TỰ NHIÊN Ở LỚP 3 Qua thực tế tìm hiểu tình hình dạy học phép nhân, phép chia cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học tôi rút ra một số nhận xét sau - Nội dung rèn luyện kỹ năng thực hiện tính nhẩm phép nhân, chia trong bảng là rất quan trọng vì nó không chỉ giúp củng cố kiến thức mới mà còn rất thuận lợi cho quá trình dạy nhân, chia ngoài bảng. Thiếu kỹ năng nhân nhẩm tốt thì học sinh sẽ rất khó khăn trong việc học phép chia đặc biệt là chia ngoài bảng chia viết. Chính vì vậy họ cho rằng nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của việc dạy phép nhân, chia ở lớp 3 là giúp học sinh có kỹ năng thực hiện tốt nhân, chia trong bảng. Phép nhân, phép chia là dạng phép tính mới, khó đối với học sinh cho nên phải coi trọng công tác hình thành khái niệm phép tính, cách thực hiện phép tính. 1. Thuận lợi Ở lứa tuổi học sinh lớp ba, các em rất ham tìm tòi học hỏi. Nội dung chương trình dạy phép nhân, phép chia số tự nhiên theo sách giáo khoa nói chung rất phong phú, vừa sức và phù hợp tâm sinh lí lứa tuổi các em. Học sinh đã nắm vững kiến thức, biết cách lập và thuộc bảng nhân, chia. Có kĩ năng vận dụng làm tính, giải toán có lời văn. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phép nhân chia các số tự nhiên lớp ba. Các em í thức được tầm quan trọng của việc học phép nhân, phép chia các số tự nhiên 2. Khó khăn Phép nhân, chia nhất là nhân, chia số tự nhiên có nhớ ở các lần chia rất khó và dễ mắc sai lầm với học sinh lớp 3 khi các em mới bắt đầu làm quen với nhân chia ngoài bảng và có nhớ. Vì vậy việc học ở phân môn này có những hạn chế nhất định. Trong việc rèn kĩ năng nhân, chia cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên hiệu quả dạy học đôi khi chưa cao. Có lúc nói suông nên học sinh không hiểu, không nắm bắt được thông tin và kĩ năng vận dụng thực hành giải toán. Một số học sinh chưa í thức học thuộc bảng nhân, bảng nên hiệu quả vận dụng để thực hiện phép nhân, chia chưa đạt hiệu quả. IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực hiện định hướng trong việc dạy bài mới và dạy thực hành luyện tập Trong dạy bài mới Giúp học sinh - Tự phát hiện và giải quyết các vấn đề của bài học. - Tự chiếm lĩnh tri thức mới. - Hướng dẫn học sinh cách thức phát hiện, chiếm lĩnh tri thức. - Thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học. - Thực hành cách diễn đạt thông tin bằng lời nói, bằng kí hiệu. Trong dạy bài thực hành luyện tập Giáo viên cần tổ chức và động viên mọi học sinh tham gia vào hoạt động thực hành luyện tập. - Giúp học sinh nhận ra kiến thức mới học và quy trình vân dụng các kiến thức đó trong các dạng bài tập khác nhau. - Giúp học sinh thực hành, luyện tập theo khả năng của mình. Chấp nhận thực tế có những học sinh làm ít hơn hay nhiều hơn số lượng bài tập đưa ra. - Tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ nhau giữa các đối tượng học sinh. - Khuyến khích học sinh tự kiểm tra kết quả thực hành luyện tập - Tập cho học sinh thói quen không thoả mãn với bài làm của mình, với các cách giải mã đã có. Tóm lại, cần thông qua các hoạt động thực hành, luyện tập làm cho các em thấy học không chỉ để biết, để thuộc mà còn để làm, để vận dụng. 2. Một số lưu ý về phương pháp dạy học giúp học sinh học tốt các nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3 Qua việc tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy học các nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3, tôi thấy Để giúp học sinh học tốt các nội dung này, giáo viên cần lưu ý những điều sau Về việc dạy giai đoạn chuẩn bị Trước khi học phép tính mới phép nhân, phép chia học sinh đều có giai đoạn chuẩn bị. Đây là cơ sở cho việc hình thành kiến thức mới, cầu nối giữa kiến thức đã học và kiến thức sẽ học. Vì vậy, khi dạy học các bài học trong giai đoạn này, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức cho học sinh để làm cơ sở vững chắc cho các em học những kiến thức mới tiếp theo. Cụ thể là - Học sinh được học bài “Tổng của nhiều số” trước khi học bài “Phép nhân”. ở đây học sinh được tính tổng các số hạng bằng nhau. Giáo viên phải lưu ý để nhận ra các tổng này đều có các số hạng bằng nhau để giúp học sinh học bài phép nhân, tính kết quả của các phép nhân trong các bảng nhân nhất là các bảng nhân đầu tiên. - Học sinh được học bài “Phép nhân” và các bài về Bảng nhân trước khi học bài “Phép chia” và các bài về Bảng chia. Giáo viên lưu ý học sinh phải thuộc bảng nhân để làm cơ sở học các bảng chia, vì các bảng chia đều được xây dựng từ các bảng nhân tương ứng. - Việc nhân chia trong bảng thành thạo cũng là cơ sở để học sinh học tốt nhân, chia ngoài bảng. Về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong từng giai đoạn lập bảng nhân, bảng chia Kỹ thuật chung của nhân, chia trong bảng là Học sinh thao tác trên các tấm bìa có các chấm tròn. Vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan ở đây là rất quan trọng. Tuy nhiên mức độ trực quan không giống nhau ở mỗi giai đoạn - Ở lớp 3 học kỳ I học sinh tiếp tục học các bảng nhân, bảng chia 6, 7, 8, 9. Lúc này các em đã có kinh nghiệm sử dụng đồ dùng học tập các miếng bìa với số chấm tròn như nhau, đã quen và thành thạo với cách xây dựng phép nhân từ những miếng bìa đó. Hơn nữa, lên lớp 3 trình độ nhận thức của học sinh phát triển hơn trước khi học lớp 2 nên khi hướng dẫn học sinh lập các bảng nhân hoặc bảng chia, giáo viên vẫn yêu cầu học sinh sử dụng các đồ dùng học tập nhưng ở một mức độ nhất định, phải tăng dần mức độ khái quát để kích thích trí tưởng tượng, phát triển tư duy cho học sinh. Chẳng hạn - Giáo viên không cùng học sinh lập các phép tính như ở lớp 2 mà chỉ nêu lệnh để học sinh thao tác trên tấm bìa với các chấm tròn để lập 3, 4 phép tính trong bảng, các phép tính còn lại học sinh phải tự lập dựa vào phép đếm thêm hoặc dựa vào các bảng nhân đã Khi hướng dẫn học sinh tự lập Bảng nhân 6, giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng các tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm tròn để lập các phép tính 6x1=6 6 x 2 = 12 6 x 3 = 18 Sau đó cho học sinh nhận xét để từ 6 x 2 = 12 suy ra được 6 x 3 = 18. Cụ thể là Với 3 tấm bìa Học sinh nêu “6 được lấy 3 lần, ta có 6 x 3” Mặt khác cũng từ 3 tấm bìa này ta thấy 6 x 3 chính là 6 x 2 + 6 Vậy 6 x 3 = 6 x 2 + 6 = 18 Bằng cách như vậy, học sinh có thể không dùng tấm bìa mà vẫn tự tìm được kết quả của phép tính 6 x 4 = 6 x 3 + 6 = 24 6 x 5 = 6 x 4 + 6 … Hoặc dựa trên bảng nhân đã học 6 x 4 = 4 x 6 = 24 6x5=5x6… Như vậy, giáo viên cần lưu ý sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý, đúng mức để không chỉ giúp học sinh nắm được kiến thức mà còn phát triển tư duy. Về phương pháp nhân, chia ngoài bảng Phương pháp chủ yếu được sử dụng là làm mẫu trên các ví dụ cụ thể. Từ đó phương pháp hướng dẫn học sinh cách đặt tính và tính. Đối với những trường hợp cần lưu ý như phép chia có chữ số 0 ở thương, ước lượng thương chưa hết, nhớ khi nhân chưa đúng … giáo viên thường đưa ra các bài tập dưới dạng Test để lưu ý học sinh cách làm đúng. 3. Tăng cương phát huy những ưu điểm và kịp thời khắc phục những khó khăn, sai lầm học sinh thường gặp khi học phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3. Ưu điểm a Do các bài học và bài tập về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3 được trình bày một cách khoa học, chính xác; cấu trúc các bài tương đối giống nhau nên nếu nghỉ học, nhờ vào việc đọc bài và làm bài tập, học sinh có thể tự rèn luyện kỹ năng tính cho mình. b Hết lớp 3 học sinh đã có những kiến, kỹ năng cơ bản nhất về phép nhân, phép chia; tự mình có thể đặt tính và tính nhân, chia số có đến 5 với số có 1 chữ số. c Học sinh biết vận dụng kỹ năng nhân, chia vào làm toán tìm thành phần chưa biết, tìm giá trị biểu thức, giải toán có văn… d Học sinh có kỹ năng tính nhanh, tính nhẩm các số tròn chục với số có một chữ số. Khó khăn, sai lầm * Học phép nhân Khi thực hiện các phép tính nhân, chia ở lớp 3 học sinh thường gặp một số khó khăn, sai lầm sau a Khi nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ 2, 3 … liên tiếp, học sinh thường chỉ nhớ lần đầu tiên mà quên không nhớ các lần tiếp theo. 1719 VD x 4 4876 b Trong phép nhân có nhớ nhiều hơn 1 nhớ 2, nhớ 3 … học sinh thường chỉ nhớ 1. 2913 VD x 4 9652 => Khắc phục Đối với 2 lỗi trên, giáo viên cần khắc phục cho học sinh bằng cách yêu cầu các em nhẩm thầm trong khi tính vừa tính, vừa nhẩm như phép tính mẫu trong sách giáo khoa và viết số cần nhớ ra lề phép tính. c Lúc đầu khi mới học nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số, học sinh còn hay sai trong cách ghi kết quả. 26 VD x 3 618 => Khắc phục Ở đây, ta cần giải thích cho học sinh rằng Nếu làm như vậy thì tích có tới 62 chục, nhưng thực ra chỉ có 7 chục mà thôi. Vì - Ở lượt nhân thứ nhất 3 nhân 6 đơn vị được 18 đơn vị, tức là 1 chục và 8 đơn vị, viết 8 ở cột đơn vị, còn 1 chục nhớ lại - ghi bên lề phép tính để thêm vào kết quả lượt nhân thứ hai – nhân hàng chục. - Ở lượt nhân thứ hai 3 nhân 2 chục được 6 chục, thêm một chục đã nhớ là 7 chục, viết 7 ở cột chục. Giáo viên cũng có thể một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của phép tính bằng cách Phân tích từ số 26 = 2 chục + 6 đơn vị và hướng dẫn học sinh nhân bình thường theo hàng ngang rồi cộng các kết quả lại. * Học phép chia a Học sinh thường ước lượng thương sai trong phép chia có dư nên dẫn đến tìm được số dư lớn hơn số chia và lại thực hiện chia số dư đó cho số chia. Cuối cùng, tìm được thương lớn hơn 89 số2 chia. VD 431 8 09 6 3 2 1 Nguyên nhân của lỗi sai này là - Do học sinh chưa nắm được quy tắc “số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia” - Học sinh không thuộc bảng nhân, bảng chia, kỹ năng trừ nhẩm để tìm số dư còn chưa tốt. => Để khắc phục sai lầm này - Khi dạy học sinh cách ước lượng thương trong phép chia, cần lưu ý cho học sinh quy tắc trong phép chia có dư “số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia” - Khi dạy về nhân, chia trong bảng, giáo viên cần yêu cầu học sinh phải học thật thuộc các bảng nhân, bảng chia trước khi dạy chia viết. - Dạy cho học sinh làm tính chia phải được tiến hành từ dễ đến khó, theo từng bước một. b Một sai lầm nữa thường thấy ở học sinh khi học chia viết là Các em thường quên chữ số “0” trong phép chia có chữ số “0” ở thương. => Nguyên nhân và cách khắc phục Do học sinh không nắm được quy tắc thực hiện chia viết “có bao nhiêu lần chia thì có bấy nhiêu chữ số được viết ở thương”. Giáo viên cũng cần lưu ý học sinh Chỉ duy nhất trong lần chia đầu tiên là được lấy nhiều hơn một chữ số ở số bị chia để chia, còn các lần chia tiếp theo lấy từng chữ số để chia và khi lấy một chữ số để chia thì phải viết được một chữ số ở thương. Bên cạnh đó, giáo viên cũng lưu ý học sinh nên viết đủ phép trừ ở các lượt chia như sau VD Hướng dẫn học sinh cách nhân khi thực hiện phép chia có dư trong mỗi lượt chia như sau 816 2 016 24 0 VD 43 5 =? Cách 1 Đếm ngược từ 43 cho đến khi gặp một tích hoặc số bị chia trong bảng nhân 5 chia 5 43; 42; 41; 40. 40 5 = 8 Vậy 43 5 = 8 dư 3 Cách 2 Tìm số lớn nhất không vượt quá 43 trong các tích số bị chia của bảng nhân chia 5 ta được 40; 40 5 = 8. Vậy 43 5 = 8 dư 3. Nhìn chung, khi học nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3, hầu hết học sinh đều nắm được kiến thức có kỹ năng nhân, chia. Những sai lầm trên đây chỉ xảy ra với số ít học sinh ở giai đoạn đầu học về nội dung này. Giáo viên cần lưu ý để có biện pháp giúp đỡ học sinh kịp thời. V. HIỆU QUẢ Sau khi đề tài được áp dụng thực hiện cho học sinh khối lớp 3 ở Trưởng Tiểu học An Thạnh quan sát kết quả học tập của học sinh các tiết học cũng như qua các lần kiểm tra định kì trong năm học vừa qua. Học sinh có phát huy những ưu hiệu quả thiết thực hơn so với các năm học trước, những khó khăn, sai lầm trong khi thực hiện giải toán nhân, chia ở lớp 3 hầu như rất ít. Mục tiêu về nội dung dạy học phép nhân, phép chia số tự nhiên Toán lớp 3 đươc đảm bảo hoàn thiện và đạt kết quả cao. Hơn 95% học sinh sau khi khảo sát đều đạt yêu cầu như - Học thuộc các bảng tính nhân 6, 7, 8, 9; bảng chia 6, 7, 8, 9. - Học sinh biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính hoặc trong các trường hợp đơn giản, thường gặp về nhân, chia. - Biết thực hiện phép nhân số có 2, 3, 4, 5 chữ số có 1 chữ số; phép chia số có 2, 3, 4, 5 chữ số cho số có 1 chữ số chia hết hoặc chia có dư. - Biết tính giá trị các biểu thức số có đến hai dấu phép tính hoặc không có dấu ngoặc. - Biết tìm một thành phần chưa biết trong phép tính. * Thông qua việc dạy học phép nhân, phép chia ở lớp 3 giúp học sinh các em còn phát triển một số kĩ năng như - Phát triển khả năng tư duy so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá. - Diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng thông tin. - Tập phát hiện, tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới. - Chăm chỉ, cẩn thận, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành toán. Nhân hóa là gì? Trong chương trình học ở phổ thông chúng ta đã được học biện pháp nhân hóa lớp 3 và tiếp tục học phép nhân hóa lớp 6. Phép nhân hóa là một trong những biện pháp tu từ quen thuộc thường thấy trong văn học. Trong bài viết này chúng tôi sẽ chia sẻ các cách nhận biết biện pháp nhân hóa, các cách nhân hóa, ví dụ và tổng hợp các bài tập minh họa để bạn hiểu rõ hơn về biện pháp nhân hóa. Nội dung chính Show Nhân hóa là gì?Tác dụng nhân hóa như thế nào?Dấu hiệu nhận biết nhân hóa trong câuCác cách nhân hóa có mấy loại?Phép nhân hóa 1 Phép nhân hóa 2Phép nhân hóa 3 Phép nhân hóa 4Các bước để sử dụng phép nhân hóa là gì?Bước 1 Xác định sự vật, hiện tượng cần được nhân hóaBước 2 Sử dụng hình thức nhân hóa nào?Bước 3 Tiến hành thực hiện nhân hóa với nội dung trong số lưu ý khi sử dụng biện pháp nhân hóaKhông sử dụng tùy tiệnCần phân biệt phép nhân hóa với các biện pháp tu từ khácSử dụng phép nhân hóa linh hoạtCác bài tập và ví dụ về nhân hóaBài 1. Tìm và nêu ý nghĩa, tác dụng của biện pháp nhân hóa trong đoạn văn dưới đâyBài 2 Nêu cách hình thành, sử dụng biện pháp nhân hóa và tác dụngBài 3 So sánh cách gọi trong tên trong 2 đoạn văn dưới đây có sự khác biệt như thế nào? Bài 4 Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏiBài 5 Đặt 3 sử dụng biện pháp nhân hóa về loài vật, cây cối và nên sự vật nhân hóa sử dụng trong câu. Nhân hóa là gì?Nhân hóa có nghĩa là gì? Nhân hóa là phép tu từ miêu tả sự vật, đồ vật, cây cối, con vật…Bằng cách sử dụng các từ ngữ thường sử dụng cho con người như tính cách, suy nghĩ giúp chúng trở nên gần gũi hơn, hấp dẫn, sinh động hơn, gắn bó với con người hơn. Nhân hóa nghĩa là gì? Các cách sử dụng nhân hóa trong chương trình học>>> Bài viết tham khảo Khái niệm câu rút gọn là gì? cách sử dụng câu rút gọnTác dụng nhân hóa như thế nào?Trong văn học nhân hóa rất quan trọng được áp dụng khá nhiều trong các tác phẩm văn học nổi tiếng. Không chỉ vậy các biện pháp nhân hóa cũng rất hữu ích trong đời sống của con người. Có tác dụng làm cho các sự vật, đồ vật trở nên sống động hơn, gần gũi hơn. Chi tiết cụ thể như sauTác dụng giúp các loại đồ vật, sự vật cây cối sinh động hơn, gần gũi hơn với suy nghĩ, cảm nhận của con dụng giúp cây cối, loài vật, con vật có những suy nghĩ, tình cảm như con hiệu nhận biết nhân hóa trong câuĐể biết được đâu là biện pháp nhân hóa bạn có thể phân tích và nhận biết theo các bước sauBước 1 Nhìn vào các dấu hiệu của sự vật, hiện tượng được nhân hóa và từng nào được sử dụng trong câu nhân hóa 2 Phân tích ý nghĩa, tác dụng của từ nhân hóa đó trong dùng để miêu tả sự vật Có tác dụng giúp sự vật hiện tượng trở nên gần gũi hơn. Nhân hóa là gì? Dấu hiệu nhận biết nhân hóa trong câuNếu từ nhân hóa đó biểu thị tư tưởng, tình cảm Có tác dụng về mặt tư tưởng, tình cảm sự vật để qua đó biểu thị tư tưởng tình cảm tác giả muốn với những bạn học sinh thường gặp khó khăn khi nhận biết có thể lưu ý một số nhận biết sauTrong câu hay đoạn văn sẽ có các từ chỉ hoạt động hay trạng thái của con hoặc đoạn văn nói về con vật, về cây cối, sự vật…nhưng có sử dụng các từ xưng hô anh, chị, cô, chú, bạn, tớ…Các cách nhân hóa có mấy loại?Có 4 phép nhân hóa chínhPhép nhân hóa 1 Phép nhân hóa sử dụng dùng từ gọi người để gọi vật Sử dụng các từ gọi, các từ xưng hô giữa người với người như cậu, tớ, bạn, mình, tôi…để gọi các loài dụ Chú dế mèn, chị sáo sậu, ông mặt trời…Ông mặt trời tỏa nắng xuống nhân gian ban phát ánh nắng cho cây cối, sự vật và con người.→ Dùng các đại từ nhân xưng để chỉ mặt trời gọi là ÔngPhép nhân hóa 2Trò chuyện, xưng hô với đồ vật, sự vật thân mật như đang nói chuyện với con người. Sự vật khi đó đã trở nên gần gũi hơn, không còn là vật vô tri vô giác. Được cảm nhận thông qua cách trò chuyện với con người. Ví dụ Cô Vịt ơi! Cô đưa các con đi tắm sông à.→ Dùng từ ngữ xưng hô như cách xưng với con người cho Vịt nhân hóa 3 Dùng những từ nhân hóa để miêu tả sự vật như đối với con người. Có thể miêu tả theo nhiều hình thức khác nhau như hành động, tâm trạng, tính cách, hình dáng…Ví dụ Những chú gà con đang lắng nghe mẹ chúng dạy cách tìm mồi.→ Dùng từ “lắng nghe” để miêu tả hoạt động của những chú gà nhân hóa 4Đồ vật, động vật, cây cối tự xưng là ngườiVí dụ Tớ là xe đua Macqueen đây. Các cách nhân hóa chính trong văn họcCác bước để sử dụng phép nhân hóa là gì?Để sử dụng phép nhân hóa áp dụng vào trong các bài văn hay trong cuộc sống hàng ngày các em học sinh làm theo các bước sauBước 1 Xác định sự vật, hiện tượng cần được nhân hóaTrước tiên chúng ta cần xác định sự vật hiện tượng nào sẽ được dùng để sử dụng biện pháp nhân hóa. Sự vật con vật gấu, gà, ếch, chim…; Đồ vật bàn, ghế, tủ, chổi…, hiện tượng trong tự nhiên mưa, nắng…Ví dụ Chị họa mi đang hót véo von trên ngọn cây.→ Sự vật được nhân hóa ở đây là “chị họa mi” đã sử dụng từ ngữ “chị” của con người để gọi loài 2 Sử dụng hình thức nhân hóa nào?Dùng phép nhân hóa nào để gán cho sự vật, hiện tượng được lựa chọn nhân hóa. Từ đó sẽ lựa chọn được các hình thức nhân hóa phù hợp dụ Ông mặt trời trốn sau lưng những đám mây ngữ sử dụng để xưng hô trong câu này “ông” để gọi mặt trờiDùng từ “trốn”dùng cho sự vật “mặt trời” được nhân 3 Tiến hành thực hiện nhân hóa với nội dung trong theo từng nội dung trong câu sẽ sử dụng biện pháp nhân hóa phù hợp với sự vật hiện dụ Mỗi loài chim đều có đặc điểm riêng biệt chim công thì biết múa, họa mi lại biết hát, vẹt biết nói rất giỏi.→ Trong câu này chúng ta đã sử dụng biện pháp nhân hóa để miêu tả tính chất của loài chim giống như con số lưu ý khi sử dụng biện pháp nhân hóaKhi sử dụng biện pháp nhân hóa cần lưu ýKhông sử dụng tùy tiệnTrước khi sử dụng người dùng cần phải cân nhắc và hiểu rõ mục đích mình muốn sử dụng là gì? Khi đã xác định được cần phải sử dụng biện pháp nhân hóa nào qua những câu hỏi như sử dụng hình ảnh nhân hóa này sẽ có ý nghĩa gì? ám chỉ điều gì? Muốn người đọc hiểu được điều gì thông qua hình ảnh nhân hóa đó. Ngay khi trả lời được những câu hỏi trên bạn đã có thể xây dựng một hình ảnh nhân hóa trọn vẹn, ý nghĩa cho sự vật, hiện tượng bạn muốn áp dụng biện pháp này. Không nên sử dụng một cách tùy tiện khi chính mình cũng không hiểu rõ ý nghĩa muốn truyền tải đến. Khi sử dụng phép nhân hóa cần lưu ý tránh sử dụng tùy tiệnCần phân biệt phép nhân hóa với các biện pháp tu từ khácTrong chương trình ngữ văn phổ thông các bạn học sinh sẽ được học các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ và hoán các biện pháp này thì biện pháp nhân hóa là biện pháp dễ nhận biết nhất, dễ sử dụng nhất. Tuy nhiên như đã nói ở trên chỉ áp dụng khi bạn hiểu rõ mục đích ý nghĩa mà mình khi sử dụng các biện pháp tu từ cũng nên tránh hiểu chung chung không rõ ràng dẫn đến tình trạng sử dụng một cách máy móc, dễ làm tưởng sang các biện pháp tu từ khác gây khó khăn cho việc truyền tải ý nghĩa của nội dụng phép nhân hóa linh hoạtBiện pháp nhân hóa nói riêng và các phép tu từ khác nói chung đều phải sử dụng linh hoạt. Không phải bất cứ hình ảnh nào hay chi tiết nào cũng có thể sử dụng phép nhân hóa. Hay sử dụng tràn lan cũng sẽ không khiến bài viết của bạn hay hơn hay đem đến hiệu quả nghệ thuật bài tập và ví dụ về nhân hóaNhư vậy với những thông tin và kiến thức về nhân hóa thường dùng dưới đây sẽ là một số bài tập và ví dụ về phép nhân hóa để các bạn học sinh có thể luyện tập và sử dụng đúng hơn 1. Tìm và nêu ý nghĩa, tác dụng của biện pháp nhân hóa trong đoạn văn dưới đây“Anh bút mực luôn cần mẫn, chăm chỉ viết lên trang giấy trắng những dòng chữ ngay ngắn, đều thẳng tăm tắp như chúng em xếp hàng vào lớp vậy.”Đối tượng được nhân hóa ở đây là chiếc bút mực được xưng là “anh” với hành động “viết” như con người Biện pháp nhân hóa chiếc bút mực giúp hình dung ra khung cảnh, tính cách của chiếc bút mực chăm chỉ cần mẫn như con người giúp câu văn sinh động hơn, có hồn 2 Nêu cách hình thành, sử dụng biện pháp nhân hóa và tác dụng“Trâu ơi, ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta”Hồ nước trong xanh mát lành xung quanh rậm rạp cây cối. Cua cá cũng tấp nập ngược xuôi, trên bầu trời bao nhiêu cò, sếu, vạc, cốc, le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mòng két cũng bay về kiếm giải Từ nhân hóa “ơi”Sử dụng biện pháp nhân hóa trò chuyện với con vật con trâu như nói chuyện với con dụng Khiến cho hình ảnh con trâu trở nên gần gũi hơn như một người bạn thân thiết cùng nhau tâm sự, chia sẻ công việc gánh nặng với con người. Bài tập và ví dụ về phép nhân hóa sử dụng hình ảnh con trâu Từ nhân hóa sử dụng là “ tấp nập”Biện pháp nhân hóa trong câu là sử dụng những từ chỉ hoạt động, tính chất của con người để chỉ hoạt động của loài dụng giúp người đọc hay người nghe dễ dàng hình dung ra khung cảnh sinh hoạt, cuộc sống của loài vật ở hồ 3 So sánh cách gọi trong tên trong 2 đoạn văn dưới đây có sự khác biệt như thế nào? Đoạn văn 1 Đoạn văn 2 Anh chàng Chổi xể gọi tên như người Chổi xể Oai vệ nhất tính từ miêu tả người oai vệ nhất Chiếc quần vàng nâu trang phục chỉ có ở con người Tết bằng nếp rơm vàng Áo của anh trang phục chỉ có ở người Tay chổi Cuốn từng vòng quanh người sử dụng từ “người” gọi tên bản thể Quấn quanh thành cuộn Nhận xét và so sánh 2 đoạn vănCách gọi và sử dụng các biện pháp tu từ trong đoạn 1 gần gũi, sinh động, khiến đoạn văn trở nên có hồn gọi trong đoạn 2 là cách nói, gọi thông thường, khách quan. Cách viết này hay sử dụng trong văn thuyết 4 Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏiHôm nay trời nắng chang changMèo con đi học chẳng mang thứ gìChỉ mang một chiếc bút chìVà mang một mẩu bánh mì con con.Trích thơ Mèo con đi học – Phan Thị Vàng AnhCho biết Bài thơ trên đã nhân hóa con vật nào? sử dụng cách nhân hóa nào? tác dụng gì?Lời giảiBài thơ trên đã nhân hóa con mèo conCách nhân hóa Sử dụng phép nhân hóa bằng cách gán cho con mèo những hoạt động của con người. Như đi học, soạn bài tập, đồ dùng học tập, mang theo bút chì, bánh mỳ ăn sáng như các bạn nhỏ dụng Giúp hình ảnh chú mèo con trở nên đáng yêu, sinh động hơn giúp bài thơ thú vị 5 Đặt 3 sử dụng biện pháp nhân hóa về loài vật, cây cối và nên sự vật nhân hóa sử dụng trong giải Bông hoa hồng đang giang tay đón những hạt sương sớm→ Nhân hóa hoa hồng như con người với hoạt động “giang tay đón” Gió thu xào xạc thổi những chiếc lá vàng rủ nhau đánh võng xuống mặt đất→ Nhân hóa chiếc lá với hoạt động như con người “rủ nhau, đánh võng” Anh bút mực đang chăm chỉ viết từng chữ nắn nót, ngay ngắn trên trang giấy trắng.→ Nhân hóa đồ dùng học tập là chiếc bút mực với hoạt động như con người “viết” Mỗi khi chơi với bé cún em luôn cảm thấy rất vui vẻ và hạnh phúc.→ Nhân hóa con chó như con người thể hiện qua những hành động tính cách yêu mến gọi con chó là “bé” Trên đây là những kiến thức và thông tin về nhân hóa là gì? các kiểu nhân hóa hay gặp và bài tập có liên quan đến nhân hóa lớp 3, lớp 6. Hy vọng thông qua bài viết này bạn đã nắm được những phần kiến thức quan trọng của biện pháp tu từ này. Từ đó có thể hoàn thành các bài tập và áp dụng trong văn thơ, giao tiếp hàng ngày để biểu đạt tốt hơn. Ngày đăng 27/09/2017, 0307 Giáo án toán lớp 5 - Tiết 3 ÔN TẬP SO SÁNH HAI PHÂN SỐ Thứ … ngày…. . tháng …… năm 200 I. MỤC TIÊU Giúp HS  Nhớ lại cách so sánh hai phân số có cùng mẫu số, khác mẫu số, so sánh phân số với đơn vị.  Biết so sánh hai phân số có cùng tử số. II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU 1. Khởi động 2. Kiểm tra bài cũ 3. Bài mới HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH Hoạt động 1 Ôn tập cách so sánh hai phân số  GV gọi HS nêu cách so sánh hai phân số có cùng mẫu số, khác mẫu số, rồi tự nêu ví dụ về từng trường hợp như SGK. Khi nêu ví dụ, chẳng hạn một HS nêu 7 5 7 2  thì yêu cầu HS đó giải thích chẳng hạn, 7 2 và 7 5 đã có cùng mẫu số là 7, so sánh 2 tử số ta có 2 7 2 . Hoạt động 2 Thực hành Bài 1 cho HS tự làm r ồi chữa bài Bài 2 cho HS làm bài rồi chữa bài, nếu không HS làm bài và trình bày bằng miệng hoặc viết chẳng hạn 14 12 2 7 26 7 6 14 12 7 6  x x vì hoặc 12 9 3 4 33 4 3 ; 12 8 4 3 42 3 2 4 3 3 2  x x x x vì mà 12 9 12 8  nên 4 3 3 2  HS làm bài rồi chữa bài a 18 17 ; 9 8 ; 6 5 b 4 3 ; 8 5 ; 2 1 đủ thời gian thì làm bài a còn lại sẽ làm khi tự học 4. Củng cố, dặn dò chuẩn bị bài tiết sau . IV. RÚT KINH NGHIỆM TIẾT DẠY Thí sinh Nguyễn Thị Thu Hằng Thứ sáu ngày 15 tháng năm 2015 Bài 1 Đọc đoạn văn sau trả lời câu hỏi Chị tre chải tóc bên ao Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương Bác nồi đồng hát bùng boong Bà chổi loẹt quẹt lom khom nhà Trần Đăng Khoa a, b, Cái trống trường em Mùa hè nghỉ Suốt ba tháng liền Trống nằm ngẫm nghĩ Buồn không trống Trong ngày hè Bọn vắng Chỉ tiếng ve? Thanh Hào - Đoạn thơ vật nhân hóa ? - Những từ ngữ giúp em nhận điều ? Bài 1 Những vật nhân hóa tre mây nồi đồng chổi trống Những từ ngữ giúp em nhận điều chị, chải tóc nàng, áo trắng, ghé vào soi gương bác, hát bùng boong bà, lom khom nghỉ, nằm, ngẫm nghĩ Buồn không trống Trong ngày hè Bọn vắng Chỉ tiếng ve? - Tác giả nhân hóa vật cách ? Thứ sáu ngày 15 tháng năm 2015 Các cách dùng để nhân hóa + Gọi vật từ ngữ dùng để gọi người + Tả vật từ ngữ dùng để tả người + Nói với vật thân mật nói với người Bài 2 Từ hình ảnh nhân hóa tập 1, em thích hình ảnh nào? Vì sao? a, Chị tre chải tóc bên ao Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương Bác nồi đồng hát bùng boong Bà chổi loẹt quẹt lom khom nhà Trần Đăng Khoa b, Cái trống trường em Mùa hè nghỉ Suốt ba tháng liền Trống nằm ngẫm nghĩ Buồn không trống Trong ngày hè Bọn vắng Chỉ tiếng ve? Thanh Hào Em thích hình ảnh trống vì Trong khổ thơ “Cái trống trường em” tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa, gán cho vật hoạt động, cảm xúc, suy nghĩ giống người nghỉ,nằm ngẫm nghĩ Đồng thời tác giả nói với trống thân mật nói với người làm cho trống – vật đỗi bình thường trở nên sinh động, gợi cảm Bài 3 Sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn đạt lại cho câu văn cho sinh động gợi cảm gieo tia a, Ông Mặtmặt trờitrời mọc từ phía đông, chiếu nắng xuống cánh đồng lúa xanh rờn b, Mấy chuyện ríu rít vòm chim trò hót Bài 4 Em viết đoạn văn miêu tả bầu trời ngày nắng đẹp tả bồn hoa mà em thích từ đến ụu câu có sử dụng biện pháp nhân hóa Sau viết xong, em gạch chân từ ngữ thể biện pháp nhân hóa Thứ sáu ngày 15 tháng năm 2015 Có cách dùng để nhân hóa? Đó cách nào? Các cách dùng để nhân hóa + Gọi vật từ ngữ dùng để gọi người + Tả vật từ ngữ dùng để tả + Gọi vật từ ngữ dùng để gọi người +người Nói với vật thân mật nói với người + Tả vật từ ngữ dùng để tả người + Nói với vật thân mật nói với người CHÚC CÁC THẦY CÔ GIÁO MẠNH KHỎE, CÁC EM CHĂM NGOAN HỌC GIỎI, PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là môn học chiếm vị trí quan trọng nhất. Với tính chất là một môn học công cụ, ngoài việc cung cấp các kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ nhằm trang bị cho học sinh một hệ thống kĩ năng hoạt động giao tiếp bằng Tiếng Việt, đồng thời môn học này còn bồi dưỡng năng lực tư duy cũng như lòng yêu quý Tiếng Việt. Do đó, môn Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ, rèn cho các em bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó, nghe, đọc là hai kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cũn núi, viết là hai kĩ năng sản sinh ngôn bản. Phõn môn Tập làm văn có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành và phát triển các kĩ năng sản sinh ngôn bản. Môn học này có vị trí đặc biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ vì Tập làm văn nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt để giao tiếp, tư duy và học tập. Thông qua môn Tập làm văn, học sinh vận dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp những kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt đã được học vào việc tạo lập nên những bài văn hay, giàu tính nghệ thuật. Trong phõn mụn Tập làm văn ở lớp 4, văn miêu tả chiếm thời lượng lớn nhất so với các loại văn khác. Văn miêu tả là một thể loại văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, nó giỳp học sinh hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng đánh giá, nhận xét. Qua các văn bản miêu tả giúp ta có thể cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế, sâu sắc hơn, làm cho tâm hồn, trí tuệ của chúng ta thêm phong phú. Những văn bản miêu tả có tác dụng to lớn như vậy một phần bởi sự có mặt của những biện pháp tu từ. Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng 1 khéo léo các đơn vị từ vựng trong phạm vi của một câu hay một chỉnh thể trờn cõu có khả năng đem lại hiệu quả tu từ do mối quan hệ qua lại giữa các đơn vị từ vựng trong ngữ cảnh rộng. Việc dạy học các biện pháp tu từ có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi nó giỳp người học biết cách sử dụng ngôn từ có hiệu quả cao. Ngôn từ được dùng không chỉ đảm bảo tính thông báo thông tin mà còn mang tính nghệ thuật, thẩm mĩ và biểu đạt tình cảm. Thông qua việc học các biện pháp tu từ này không chỉ giúp người học cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong văn bản nghệ thuật mà còn ham muốn tạo ra cái hay, cái đẹp bằng ngôn từ. Hai biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất trong các bài văn miêu tả là biện pháp so sánh và nhân hóa. Khi học sinh được học những kiến thức về sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong văn miêu tả, các em sẽ nhận thấy cái hay, cái đẹp chứa đựng trong từng cách so sánh, nhân hóa một sự vật. Từ đó, các em sẽ biết sử dụng các biện pháp tu từ sao cho đúng, cho hay để viết văn miêu tả gợi hình, gợi cảm và sinh động hơn. Thực tế cho thấy khả năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa để viết văn miêu tả của học sinh lớp 4 còn nhiều hạn chế. Các bài văn viết của học sinh thường ít sử dụng biện pháp so sánh và nhân hóa hoặc có sử dụng thì cũng chưa hay, chưa phù hợp hoặc hiệu quả chưa cao. Vì vậy, các bài văn miêu tả của các em học sinh lớp 4 thường khô khan, câu văn thiếu hình ảnh, đơn điệu, chỉ mang tính liệt kê, mô tả. Bên cạnh đó, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh sử dụng các biện pháp tu từ này trong bài văn miêu tả. So sánh và nhân hoá là hai biện pháp tu từ được sử dụng nhiều trong khi nói và viết văn bản. Hai biện pháp tu từ này không được dạy thành bài riêng trong chương trình Tiếng Việt tiểu học cũ từ líp Một đến líp Năm. Chúng chỉ được dạy cho học sinh giỏi khối Bốn, khối Năm hoặc được nói 2 đến trong các giê tập đọc khi khai thác nội dung của bài học. Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học mới, hai biện pháp tu từ này được đưa vào cho học sinh làm quen từ líp Hai và được dạy chính thức thành bài riêng cho học sinh líp Ba ở phân môn Luyện từ và câu. Luyện từ và câu là tên gọi mới của phân môn Từ ngữ, ngữ pháp. Cách gọi này và Tìm hiều khả năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong bài văn miêu tả của học sinh lớp 4, các dạng bài tập rèn kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là môn học chiếm vị trí quan trọng nhất. Với tính chất là một môn học công cụ, ngoài việc cung cấp các kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ nhằm trang bị cho học sinh một hệ thống kĩ năng hoạt động giao tiếp bằng Tiếng Việt, đồng thời môn học này còn bồi dưỡng năng lực tư duy cũng như lòng yêu quý Tiếng Việt. Do đú, môn Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ, rèn cho các em bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó, nghe, đọc là hai kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cũn núi, viết là hai kĩ năng sản sinh ngôn bản. Phõn môn Tập làm văn có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành và phát triển các kĩ năng sản sinh ngôn bản. Môn học này có vị trí đặc biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ vì Tập làm văn nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt để giao tiếp, tư duy và học tập. Thông qua môn Tập làm văn, học sinh vận dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp những kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt đã được học vào việc tạo lập nên những bài văn hay, giàu tính nghệ thuật. Trong phõn mụn Tập làm văn ở lớp 4, văn miêu tả chiếm thời lượng lớn nhất so với các loại văn khác. Văn miêu tả là một thể loại văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, nú giỳp học sinh hình thành và 1 phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng đánh giá, nhận xét. Qua các văn bản miêu tả giúp ta có thể cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế, sâu sắc hơn, làm cho tâm hồn, trí tuệ của chúng ta thêm phong phú. Những văn bản miêu tả có tác dụng to lớn như vậy một phần bởi sự có mặt của những biện pháp tu từ. Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng khéo léo các đơn vị từ vựng trong phạm vi của một câu hay một chỉnh thể trờn cõu có khả năng đem lại hiệu quả tu từ do mối quan hệ qua lại giữa các đơn vị từ vựng trong ngữ cảnh rộng. Việc dạy học các biện pháp tu từ có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi nú giỳp người học biết cách sử dụng ngôn từ có hiệu quả cao. Ngôn từ được dùng không chỉ đảm bảo tính thông báo thông tin mà còn mang tính nghệ thuật, thẩm mĩ và biểu đạt tình cảm. Thông qua việc học các biện pháp tu từ này không chỉ giúp người học cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong văn bản nghệ thuật mà còn ham muốn tạo ra cái hay, cái đẹp bằng ngôn từ. Hai biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất trong các bài văn miêu tả là biện pháp so sánh và nhân hóa. Khi học sinh được học những kiến thức về sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong văn miêu tả, các em sẽ nhận thấy cái hay, cái đẹp chứa đựng trong từng cách so sánh, nhân hóa một sự vật. Từ đó, các em sẽ biết sử dụng các biện pháp tu từ sao cho đúng, cho hay để viết văn miêu tả gợi hình, gợi cảm và sinh động hơn. Thực tế cho thấy khả năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa để viết văn miêu tả của học sinh lớp 4 còn nhiều hạn chế. Các bài văn viết của học sinh thường ít sử dụng biện pháp so sánh và nhân hóa hoặc có sử dụng thì cũng chưa hay, chưa phù hợp hoặc hiệu quả chưa cao. Vì vậy, các bài văn miêu tả của các em học sinh lớp 4 thường khô khan, câu văn thiếu hình ảnh, đơn điệu, chỉ mang tính liệt kê, mô tả. Bên cạnh đó, nhiều 2 giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh sử dụng các biện pháp tu từ này trong bài văn miêu tả. So sánh và nhân hoá là hai biện pháp tu từ được sử dụng nhiều trong khi nói và viết văn bản. Hai biện pháp tu từ này không được dạy thành bài riêng trong chương trình Tiếng Việt tiểu học cũ từ lớp Một đến lớp Năm. Chúng chỉ được dạy cho học sinh giỏi khối Bốn, khối Năm hoặc được nói đến trong các giờ tập đọc khi khai thác nội dung của bài học. Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học mới, hai biện pháp tu từ này được đưa vào cho học sinh làm quen Trang 1 I. TÊN ĐỂ TÀI MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NHẬN BIẾT VÀ SỬ DỤNG BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH VÀ NHÂN HÓA CHO HỌC SINH LỚP 3. II. ĐẶT VẤN ĐỀ Như chúng ta đã biết, tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng. Với cộng đồng, đó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Đối với trẻ em, nó càng có vai trò quan trọng. đã chỉ rõ “trẻ em đi vào trong đời sống tinh thần của mọi người xung quanh nó duy nhất thông qua phương tiện tiếng mẹ đẻ và ngược lại, thế giới bao quanh đứa trẻ được phản ánh trong nó chỉ thông qua chính công cụ này”… Và tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Bởi vậy, chương trình tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5 ở Tiểu học không chỉ coi trọng dạy học tiếng Việt mà luôn coi nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. Dưới sự hướng dẫn của các thầy giáo, cô giáo những bài thơ, bài văn trong sách giáo khoa sẽ đem đến cho các em bao nhiêu điều kì lạ và hấp dẫn. Tuy nhiên, muốn trở thành một học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt, mỗi em phải tự giác phấn đấu và rèn luyện về nhiều mặt. Để có được năng lực cảm thụ văn học sâu sắc và tinh tế, cần có sự say mê, hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn, chịu khó tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học; nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Việt phục vụ cảm thụ văn học. Rèn luyện để nâng cao năng lực cảm thụ văn học là một trong những nhiệm vụ cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Có năng lực cảm thụ văn học tốt, các em sẽ cảm nhận được những nét đẹp của văn thơ, được phong phú hơn về tâm hồn, nói - viết tiếng Việt thêm trong sáng và sinh động. Đối với học sinh lớp Ba, bồi dưỡng cho các em cảm thụ văn học thông qua các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa là biện pháp tốt nhất. Vì so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình Trang 2 thức miêu tả sinh động, so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm, bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo tế nhị. Sử dụng các biện pháp nhân hóa, nó biến sự vật thành con người bằng cách gán cho nó những đặc điểm mang tính cách người, làm cho nó trở lên sinh động gợi cảm và hấp dẫn hơn. Chúng như có hồn, như biết tâm sự, trò chuyện với chúng ta. Trong thực tế giảng dạy những năm qua, tôi nhận thấy do khả năng tư duy của các em còn dừng lại ỏ mức độ tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh, nhân hóa còn hạn chế, vốn kiến thức văn học của học sinh còn nghèo. Một số em chưa có khả năng nhận biết về nghệ thuật, học sinh chỉ mới biết các sự vật một cách cụ thể. Nên khi tiếp thu về nghệ thuật tu từ so sánh và nhân hóa rất khó khăn. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết và sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa cho học sinh lớp Ba”. III. CƠ SỞ LÝ LUẬN - Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng, còn một số điểm chưa hợp lý mặc dù SGK đã chú trọng phương pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo vẫn còn ít, đơn điệu, kiến thức dạy học sinh còn mang tính trừu tượng, thiếu hình ảnh minh hoạ nên học sinh còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình lĩnh hội các kiến thức mới. - Cũng như các loại từ, học sinh không cần nắm được các khái niệm so sánh hay nhân hóa. Tuy nhiên, các em có thể nhận biết được các biện pháp này dưới dạng cụ thể, đồng thời bước đầu ý thức được hiệu quả của chúng đối với hoạt động giao tiếp cũng như khi làm văn. Trong chương trình tiếng Việt lớp Ba, học sinh được làm quen với hai biện pháp cơ bản so sánh, nhân hóa. - Để trau dồi năng lực cảm thụ văn học ở Tiểu học, các em cần nắm vững những kiến thức cơ bản đã học trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Trang 3 Có hiểu biết về ngữ âm và chữ viết tiếng Việt âm, thanh - chữ ghi âm, dấu ghi thanh; tiếng, các bộ phận của tiếng, … các em mới dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp của các câu văn, bài thơ. Nắm vững BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC THÔNG QUA BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH VÀ NHÂN HÓA Nguyễn Thị Hoà 1 Tóm tắt Một mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là giúp học sinh cảm nhận cái hay, cái đẹp của ngôn từ Tiếng Việt và bước đầu có những hiểu biết sơ giản về cuộc sống xung quanh. Vẻ đẹp của ngôn từ tiếng Việt được thể hiện trong ngữ liệu những bài tập đọc. Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên tiểu học cần bồi dưỡng và tích cực hoá khả năng cảm thụ Văn học của học sinh. Về mặt hình thức, để tạo sức hấp dẫn phù hợp tâm lí lứa tuổi, hầu hết các tác phẩm Văn học được đưa vào sách giáo khoa bậc học này đều tạo hiệu quả thẩm mỹ thông qua các biện pháp tu từ. Bài viết giới hạn việc khảo sát tác dụng của hai biện pháp so sánh và nhân hóa thông qua hệ thống bài tập thực nghiệm, từ đó góp ý kiến trao đổi xung quanh vấn đề bồi dưỡng khả năng cảm thụ Văn học cho học sinh. 1. MỞ ĐẦU Môn Tiếng Việt ở tiểu học có vai trò quan trọng trong việc hình thành các kĩ năng cơ bản cho học sinh. Riêng phân môn tập đọc có nhiệm vụ hình thành và phát triển các khả năng tiếp nhận văn bản. Số lượng các tác phẩm văn học được lựa chọn làm ngữ liệu trong sách giáo khoa bậc học này đều dựa trên cơ sở đảm bảo tính hệ thống, phù hợp với quan điểm xây dựng chương trình. Trong các giờ tập đọc mà đối tượng là tác phẩm văn học, phần lớn giáo viên hướng dẫn các em đọc đúng, đọc hiểu là chủ yếu. Khả năng đọc diễn cảm còn hạn chế đã ảnh hưởng đến năng lực cảm thụ văn học của các em. Tác phẩm văn học được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy cho học sinh xuất hiện với hai tư cách tư cách ngữ liệu cho một đơn vị bài học và tư cách một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Là tác phẩm nghệ thuật, mỗi bài thơ, câu văn đều ẩn chứa những tín hiệu thẩm mỹ. Từ mục tiêu chương trình, quá trình đọc hiểu văn bản không chỉ giúp học sinh tri nhận về những gì diễn ra trong thế giới xung quanh mà còn bồi dưỡng tâm hồn, định hướng những tình cảm tốt đẹp cho các em. Để đạt mục tiêu ấy, hình thức tác phẩm có vai trò quan trọng. Trên thực thế, qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy các biện pháp tu từ đã tạo sức hấp dẫn cho câu văn, lời thơ tiếng Việt. Biện pháp tu từ là một là những cách phối hợp sử dụng khéo léo các đơn vị từ vựng trong phạm vi của một câu hay một chỉnh thể trong câu có khả năng đem lại hiệu quả tu từ do mối quan hệ qua lại giữa chúng. Hiểu được vai trò và sử dụng hiệu quả các biện pháp tu từ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với học sinh tiểu học. Nhân hóa và so sánh là những biện pháp tu từ được sử dụng với tỉ lệ lớn thông qua các văn bản văn học chương trình tập đọc ở 1 CN, Trường CĐSP Hải Dương tiểu học. Mỗi đoạn trích trong các bài tập đọc sử dụng nhân hóa, so sánh, khi được giáo viên chú ý khai thác sẽ nâng cao khả năng cảm nhận vẻ đẹp ngôn từ, giúp các em nói, viết được các câu văn gợi hình, gợi cảm và sinh động. Trong nhiều giờ học tập đọc, với nhiều nguyên nhân, giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến việc rèn khả năng cảm thụ văn học cho học sinh. Những năm gần đây, một trong những vấn đề khiến nhiều giáo viên văn trăn trở, bối rối, thậm chí bất lực buông xuôi, đó là tình trạng học trò chán học văn, miễn cưỡng với nghe, ghi chép, trả bài - trong đó hoạt động nghe không còn hứng thú, hoạt động ghi không có sáng tạo và việc trả bài phần nào đúng với ý nghĩa là trả lại bài thầy cô đã giảng cho thầy cô. Việc hướng dẫn tìm hiểu nội dung hay hình thức tác phẩm chỉ đơn thuần là việc trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa. Do thời lượng quy định của tiết học, giáo viên đã vô hình trung hạn ... dụng biện pháp nhân hóa Sau viết xong, em gạch chân từ ngữ thể biện pháp nhân hóa Thứ sáu ngày 15 tháng năm 2015 Có cách dùng để nhân hóa? Đó cách nào? Các cách dùng để nhân hóa + Gọi vật từ... Đoạn thơ vật nhân hóa ? - Những từ ngữ giúp em nhận điều ? Bài 1 Những vật nhân hóa tre mây nồi đồng chổi trống Những từ ngữ giúp em nhận điều chị, chải tóc nàng, áo trắng, ghé vào soi gương bác,... vật thân mật nói với người Bài 2 Từ hình ảnh nhân hóa tập 1, em thích hình ảnh nào? Vì sao? a, Chị tre chải tóc bên ao Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương Bác nồi đồng hát bùng boong Bà chổi - Xem thêm -Xem thêm ôn tập so sánh và nhân hóa lớp 3, ôn tập so sánh và nhân hóa lớp 3, 05 Tháng Mười Hai 2018 Không còn ứng dụng phương pháp truyền thống, các nhà sư phạm ngày nay theo đuổi cách tiếp cận cá nhân hóa, trao cho mỗi học sinh khả năng làm chủ trải nghiệm học tập của chính mình. Học sinh giữ trọng trách cao nhất đối với trải nghiệm học tập của các em tại trường học. Ngày nay, cá nhân hóa trong học tập là chìa khóa giúp các em trưởng thành và thành công trong tương lai. Cá nhân hóa trong học tập chỉ là khái niệm phổ thông, nhưng nay đã được ứng dụng rộng rãi tại các trường học trên toàn thế giới như một phương pháp giúp giáo viên truyền tải kiến thức một cách hiệu quả dựa trên năng lực của từng học sinh. Nếu như trước đây, giáo viên chỉ đơn thuần đưa kiến thức với hy vọng bằng cách nào đó các học sinh đều tiếp thu được thì nay phương pháp này đã dần biến mất. Không còn cảnh giáo viên đứng giảng trên bục giảng nữa, các nhà sư phạm ngày nay tin rằng những phương pháp truyền thống không còn hiệu quả với một thế hệ trẻ đang cần trang bị nhiều kỹ năng hơn cho sự nghiệp tương lai. Theo nghiên cứu của Trường Sư phạm Quốc gia, cơ quan chuyên môn của Bộ Giáo dục Anh quốc, cá nhân hóa trong học tập sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho trẻ em trong quá trình trưởng thành và phát triển. Phương pháp này thừa nhận sự khác biệt của mỗi cá nhân, khuyến khích giáo viên chú ý tới phong cách học tập của từng học sinh, phát hiện ra điều gì là động lực cho các em học tập hay các em cần gì để học tập hiệu quả. Cá nhân hóa trong học tập cũng cho phép mỗi học sinh vượt qua những mục tiêu mà các em tự đặt ra, giúp giáo viên sử dụng thành công các phương pháp đánh giá chuyên sâu đối với mỗi học sinh, có phương pháp khuyến khích các em phát huy thế mạnh của mình. Cách tiếp cận này coi trọng quá trình học, không phải quá trình dạy. Học sinh học trong mọi trải nghiệm và với mọi cá nhân khác, thậm chí vượt qua phạm vi lớp học. Chia sẻ về khái niệm cá nhân hóa trong học tập, Giám đốc Giáo dục của Tổ chức Giáo dục Quốc tế Nord Anglia NAE Andy Puttock cho biết “Cần khuyến khích mỗi học sinh, mỗi đứa trẻ phát triển như một cá nhân khác biệt”. Ngôi trường tốt nào cũng cho rằng mình ứng dụng thành công phương pháp cá nhân hóa trong học tập. Tuy nhiên, câu hỏi cần trả lời là cá nhân hóa trong học tập cụ thể là gì, trông như thế nào? Học sinh sẽ học ra sao? Ông Andy Puttock, Giám đốc Giáo dục của NAE Tại Trường Quốc tế Anh Bắc Kinh Trung Quốc, nơi ông Andy Puttock từng làm Hiệu trưởng trong khoảng thời gian 5 năm, các giáo viên luôn nỗ lực giúp học sinh học tập qua nhiều hoạt động được thiết kế đa dạng. Những hoạt động đó bao gồm việc ứng dụng công nghệ, cùng nhau định hình vấn đề và thảo luận đưa ra giải pháp, tự học có hướng dẫn và học tập trải nghiệm bên ngoài lớp học. Nhờ đó, giáo viên thường xuyên thay đổi nhiều cách tiếp cận và hoạt động khác nhau để tăng hứng thú học tập và tối ưu hóa bài học, phù hợp với ưu thế mỗi học sinh. Các giáo viên học cách đặt đúng câu hỏi cho học sinh nhằm thu được đúng câu trả lời cần thiết. [...] Chúng tôi đầu tư nhiều thời gian và nguồn lực vào phát triển đội ngũ giáo viên và quy trình đánh giá chất lượng học tập. Sau mỗi bài học, chúng tôi đảm bảo giáo viên hoàn toàn đánh giá được mỗi mức độ tiếp thu bài giảng của mỗi học sinh. Ông Andy Puttock, Giám đốc Giáo dục của NAE Để mô hình cá nhân hóa trong học tập thực sự đạt hiểu quả, giáo viên cần phải củng cố phương pháp này bằng quá trình tạo lập và hoàn thành mục tiêu của mỗi học sinh. Quá trình này cho phép giáo viên xác định hạn chế và đòi hỏi của mỗi học sinh, khuyến khích các em làm chủ và có trách nhiệm hơn trong việc tự hoàn thiện tri thức cho mình. “Việc học là do chính các em, những học sinh, quyết định thay vì nhà trường hay các thầy cô giáo”, ông Andy Puttock khẳng định. “Cá nhân hóa trong học tập giúp Nhà trường hiểu được gốc rễ của vấn đề, biết các em cần gì thay vì chỉ giảng một giáo án soạn sẵn.” Ngày nay, không còn tình trạng mỗi học sinh chỉ học tốt một môn mà mình có năng khiếu trong khi lại yếu những môn khác. Bởi vì, cá nhân hóa trong học tập thừa nhận bản chất của sự phát triển không nằm trên một đường thẳng. Không phải là các em không học tốt mà là chưa phát huy hết sức mình. Một khi hiểu được điều này, các em sẽ sẵn sàng thay đổi và phát triển tư duy. Andy Puttock chia sẻ “Chúng tôi đưa việc giảng dạy trở thành sản phẩm của mỗi cá nhân. Chúng tôi hiểu mỗi em cần gì để tiến bộ trong học tập.” Nếu một học sinh trong lớp chưa giỏi Toán, chúng tôi đảm bảo em sẽ được dạy dỗ để đáp ứng đủ mọi tiêu chuẩn về kỹ năng và tư duy tính toán mà một công dân toàn cầu cần. Điều này khác hẳn với mô hình đào tạo cứng nhắc, đòi hỏi mọi học sinh phải tiếp thu theo cách giống nhau. Cá nhân hóa trong học tập cho phép các em phát huy hết khả năng ở các lĩnh vực có lợi thế nhưng vẫn được hỗ trợ để chinh phục các môn học còn yếu. Ông Andy Puttock, Giám đốc Giáo dục của NAE Cá nhân hóa trong học tập là gì? 1. Sự am hiểu về học sinh Việc hiểu rõ năng lực của các em đòi hỏi kỹ năng và sự cam kết thực sự của giáo viên. Giáo viên không những phải nắm được thông tin về trình độ của học sinh, mà còn phải hiểu rõ về thế mạnh, năng khiếu, nguyện vọng và nguồn động lực của các em. 2. Chất lượng giảng dạy cao Giáo viên cần biết cách đặt câu hỏi cho học sinh để nhận được câu trả lời cần thiết, phân bổ hoạt động trong lớp học để đảm bảo mỗi học sinh đều đạt được mục tiêu kỳ vọng của mình trong bài học đó. Mục tiêu học tập của mỗi học sinh là khác biệt và cũng sẽ phát triển, thay đổi cùng các em. 3. Nuôi dưỡng đam mê Cá nhân hóa trong học tập cho học sinh cơ hội phát triển sở thích và đam mê. Học sinh được quyết định mức độ tham gia vào các hoạt động học tập theo đam mê cá nhân của mình. Giáo viên có trách nhiệm định hướng chiến lược cho các em để đạt đượcmục tiêu kỳ vọng. Nguồn Tổ chức Giáo dục Quốc tế Nord Anglia Theo ông Andy Puttock, “Áp lực trong học tập làm mất hết mọi hứng thú. Vì thế, các em cần được ở trong một môi trường có những người sẵn sàng hỗ trợ và cổ vũ các em. Họ sẽ đặt ra những thử thách và khuyến khích các em đạt được mục tiêu”. Nhờ vậy, các em có được niềm yêu thích học tập, điều thường bị coi nhẹ trong mô hình giáo dục truyền thống. Tìm hiểu thêm về Cá nhân hóa trong học tập tại Nord Anglia Education’s approach to personalised learning 5. Tin tức Tìm hiểu thêm 5. Tin tức Bạn đang xem tài liệu "Luyện tập So sánh và nhân hoá", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên Lời dẫn Những năm trở lại đây sách giáo khoa mới đã giúp học sinh tiểu học phát triển tư duy, trong các môn học nói chung và môn tiếng việt nói riêng đã giúp cho học sinh nhận biết được cái hay, cái đẹp của tiếng việt . giúp học sinh biết được giá trị thẫm mĩ của tiếng mẹ đẻ đặc biệt phát triển cho học sinh kĩ năng so sánh, kĩ năng nhân hoá . môn luyện từ và câu ở tất cả các lớp đã giúp cho học sinh kĩ năng giao tiếp , hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc,viết cho học sinh từ đó giúp cho học sinh phát triển trí tuệ về thế giới xung quanh các em đang sống. Đặc biệt là môn luyện từ và câu ở lớp 3 , sau những năm trực tiếp đứng lớp được gần gủi học sinh nhìn nhận được những gì mà học sinh thu nhặt được trong quá trình học tập trong quá trình công tác . Tôi nhận thấy rằng môn học luyện từ và câu ở lớp 3 có ảnh hưởng rất lớn đến môn tập làm văn cho các lớp 4 và 5 . là lớp học cuối của giai đoạn 1 Môn luyện từ và câu có một tầm quan trọng lớn làm điểm tựa cho các lớp học sau. Nếu học sinh nắm chắc so sánh và nhân hoá ở lớp 3 thì tôi tin chắc rằng em đó sẻ học giỏi môn tập làm văn ở lớp 4 và 5 . để gúp các em học tốt phần so sánh và nhân hoá tôi đưa ra những khái niệm cơ bản và những ví dụ có trong sách giáo khoa để các em tiện học tập và nắm bắt và học tập . những gì còn thiếu sót mong các em cùng bạn đọc góp ý thêm . Chúc các em học giỏi! So sánh và nhân hoá A . so sánh I . khái niệm Là hiện tượng so sánh hai hay nhiều sự vật có những điểm giống nhau về âm thanh , màu sắc , hình dáng ,tính chất ... A tựa, tưởng, như ,bằng B . II . tác dụng của so sánh So sánh có tác dụng làm cho câu văn câu thơ có hình ảnh tư tưởng tình cảm tác giả biểu hiện trong câu thơ câu văn III . phân loại so sánh 1 . nhóm so sánh cây cối so sánh với các bộ phận trên cơ thể con người. làm cho các câu văn câu thơ như gần gũi với con người - hai bàn tay em như hoa đầu cành Huy Cận ơi cái dấu hỏi Trông ngộ ngộ ghê Như vành tai nhỏ Hỏi rồi lắng nghe Phạm Như Hà trẻ em như búp trên cành biết ăn ngủ biết học hành là ngoan cây pơ mu đầu dóc im như người lính canh ngựa tuần tra biên giới dừng đỉnh đèo hí vang bà như quả ngọt chính rồi càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng 2 . nhóm so sánh ngang bằng . đây là những hình ảnh so sánh các bộ phận cơ thể con người ,cây cối ,hiện tượng thời tiết .. các từ dùng so sánh . tựa , là , như - mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời Em yêu nhà em hoa xoan trước ngõ hoa xao xuyến nở như mây từng chùm Tô Hà Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh Mùa hè Trời là cái bếp lò nung Lò Ngân Sủn Cái bảng bằng cái chiếu Cục phấn từ đá ra Thầy viết chữ thật to Chuyện loài người trước nhất Xuân Quỳnh 3 . nhóm so sánh hơn kém .đây là hiện tượng so sánh giữa con người với con người , các đồ vật với hiện tượng tự nhiên , hiện tượng tự nhiên với con người , cây cối với nhau .. các từ dùng so sánh ; hơn , kém ,chẳng bằng Bế cháu ông thủ thỉ - cháu khoẻ hơn ông nhiều ! ông là buổi trời chiều Cháu là ngày rạng sáng Phạm Cúc Ông trăng tròn sáng tỏ Soi rõ sân nhà em Trăng khuya sáng hơn đèn ơi ông trăng sáng tỏ Trần Đăng Khoa Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ thức chỉ vì chúng con Đêm nay mẹ ngủ giấc tròn mẹ là ngọn gió của con suốt đời Trần Quốc Minh 4 . nhóm so sánh âm thanh với âm thanh . đây là hiện tượng so sánh âm thanh của các hiện tượng tự nhiên với tự nhiên , của hiện tượng tự nhiên với đồ vật , của đồ vật với hiện tượng tự nhiên .. Đã có ai lắng nghe Tiếng mưa trong rừng cọ Như tiến thác dội về Như ào ào trận gió Nguyễn Viết Bình Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiến đàn cầm bên tai Nguyễn Trãi Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lòng cổ thụ bống lồng hoa Hồ Chí Minh Mỗi lúc , tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc những rổ tiền đồng . chm đậu chen nhau trắng xoá trên trên những đầu cây mắm , cây chà là ,cây vẹt rụng trụi gần hết lá Đoàn Giỏi 5 . nhóm so sánh hoạt động với hoạt động . đây là hiện tượng so sánh hoạt động của con vật này với con vật khác , hoạt động của đồ vật này với đồ vật khác , hoạt động của con người với đồ vật . Con mẹ đẹp sao Những hòn tơ nhỏ Chạy như lăn tròn Trên sân , trên cỏ Phạm Hổ Con trâu đen lông mượt Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh Chân đi như đập đất Trần Đăng Khoa “ xuồng con đậu quanh thuyền lớn giống như đàn con nằm quanh bụng mẹ . khi có gió ,thuyền mẹ cót két rên rỉ ,đám xuồng con lại húc húc vào mạn thuyền mẹ như đòi bú tí 6 . so sánh đặc điểm . là hiện tượng so sánh đặc điểm của sự vật này với sự vật khác , so sánh tính nết của con người với các đồ vật , so sánh cây cối với đặc điểm của con vật Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bống lồng hoa Hồ Chí Minh Rồi đến chị rất thương Rồi đến em rất thảo ông lành như hạt gạo Bà hiền như suối trong Trúc Thông Cam Xã Đoài mộng nước Giọt vàng như mật ông Sầu riêng Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm . Gió đưa hương thơm ngát như hương cau , hương bưởi toả khắp khu vườn .Hoa đậu từng chùm , màu trắng ngà .Cánh hoa nhỏ như vảy cá , hao hao giống cánh sen non , lác đác vài nhuỵ li ti giữa những cánh hoa . mỗi cuống hoa ra một trái .Nhìn trái sầu riêng lủng lẳng dưới cành trông giống những tổ kiến . Mùa trái rộ vào tháng tư tháng năm ta . Mai VănTạo Nhớ lại buổi đầu đi học Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mĩm cười giữa bầu trời quang đãng . Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ , biết lớp , biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ . Thanh Tịnh Từ những cành sấu non bật ra những chùm hoa trắng muốt, nhỏ như những chiếc chuông tí hon . hoa sấu thơm nhẹ . Vị hoa chua chua thấm vào đầu lưỡi , tưởng như vị nắng non của mùa hè mới đến vừa động lại . Băng Sơn điệu hò chèo thuyền của chị gái vang lên . Tôi nghe như có cơn gió chiều thổi nhè nhẹ qua đồng, rồi vút bay cao .Đôi cánh thần tiên như nâng tôi bay lên lơ lửng,đưa đến những bến bờ xa lạ .Trước mắt tôi , vừa hiện ra con sông giống như sông Thu Bồn từ ngang trời chảy lại . Tiếng hò trên sông -Võ Quảng Cây rau khúc rất nhỏ . Chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú . Lá rau như mạ bạc , trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng .Những hạt sương sớm động trên lá long lanh như những bống đèn pha lê . Hai dì cháu tôi hái đầy rổ mới về chõ bánh khúc của dì tôi , TV3 - T1 – Ngô Văn Phú Lần nào trở về với bà , Thanh cũng thấy bình yên và thông thả như thế . Căn nhà , thửa vườn này như một nơi mát mẻ và hiền lành . ở đấy , bà lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu thanh Thạch Lam Cây mai tứ quý Cây mai cao trên hai mét ,dáng thanh ,thân thẳng như thanh trúc . Tán tròn tự nhiên xoè rộng ở phần gốc , thu dần thành một điểm ở đỉnh ngọn gốc lớn bằng bắp tay , cành vươn đều , nhánh nào cũng rắn chắc Mai tứ quý nở bốn mùa . Cánh hoa vàng thẩm xếp làm ba lớp .Năm cánh dài đỏ tía như ức gà chọi đỏ suốt từ đời hoa sang đời kết trái .Trái kết màu chín đậm , óng ánh như những hạt cườm đính trên từng áo lá lúc nào cũng xum xuê một màu xanh chắc bền . Nguyễn Vũ Tiềm Sông La ơi sông La Trong veo như ánh mắt Bờ tre xanh im mát Mươn mướt đôi hàng mi bè đi chiều thầm thì gỗ lượn đàn thong thả Như bầy trâu lim dim Đằm mình trong êm ả Vũ Duy Thông Trên ngọn , một thứ búp như kết bằng nhung và phấn vươn lên .Những đàn bướm trắng , bướm vàng bay đến , thoáng đổ rồi bay đi .Núp trong cuống lá , những búp ngô non nhú lên và lớn dần .Mình có nhiều khía vàng vàng và những sợi tơ hung hung bọc trong làn áo mỏng óng ánh . Trời nắng chang chang , tiếng tu hú gần xa ran ran .Hoa ngô xao xác như cỏ may . Lá ngô quắt lại rủ xuống .Những bắp ngô đã mập và chắc , chỉ còn chờ tay người đến bẻ mang về . Nguyên Hồng Lá bàng Có những cây mùa nào cũng đẹp như cây bàng . mùa xuân, lá bàng mới nảy trông như những ngọn lửa xanh . sang hè , lá thật dày , ánh sáng xuyên qua chỉ còn là màu ngọc bích .Khi lá bàng ngả sang màu lục , ấy là mùa đến những ngày cuối đông , mùa của lá rụng ,nó lại có vẻ đẹp riêng .Những lá bàng mùa đông đỏ như đồng ấy , tôi có thể nhìn cả ngày không chán . Năm nào tôi cũng chọn lấy mấy lá đẹp về phủ một lớp dầu mỏng , bày lên bàn viết .bạn có biết nó gợi lên chất liệu gì không ? chất sơn mài . Đoàn Giỏi Hoa mai vàng Hoa mai cũng có năm cánh như hoa đào , nhưng cánh hoa mai to hơn cánh hoa đào một chút . những nụ mai không phô hồng mà ngời xanh màu ngọc bích . Sắp nở , nụ mai mới phô vàng . Khi nở , cánh hoa ,ai xoè ra mịn màng như lụa . Những cánh hoa ánh lên một sắc vàng muốt , mượt mà . Một mùi thơm lựng như nếp hương phảng phất bay ra . Mùa xuân và phong tục Việt Nam Mặt trời lên cao dần . Gió đã bắt đầu mạnh . Gió lên , nước biển càng dữ . Khoảng mênh mmông ầm ĩ càng lan rộng mãi .Biển cả muốn nuốt tươi con đê mỏng mênh như con mập đớp con cá chim nhỏ bé . Một tiếng ào dữ dội . Như một đàn cá voi lớn , sóng trào qua những cây vẹt cao nhất , vụt vào thaan đê rào rào Chu Văn Quang cảnh làng mạc ngày mùa Trong vườn , lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống , như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lững . Từng chiếc lá mít vàng ối . Tàu đu đủ , chiếc lá sắn héo lại nở năm cánh vàng tươi . Buồng chuối đốm quả chín vàng . Những tàu lá chuối vàng ối xoã xuống như những đuôi áo ,vạt áo . nắng vườn chuối trong gió lẫn với lá vàng như những vạt áo nắng , đuôi áo nắng , vẫy vẫy . Tô Hoài - TV5 , T1 Chiều tối Nắng bắt đầu trút lên những vòm cây cao, rồi nhạt dần như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng . Trong những bụi cây đã thấp thoáng những mảng tối . Màu tối lan dần dưới từng gốc cây , ngả dài trên thảm cỏ , rồi đổ lốm đốm trên lá cành , trên những vòm xanh rậm rạp . Bống tối như bức màn mỏng , như thứ bụi xốp , mờ đen , phủ dần lên mọi vật Phạm Đức – TV5 Vịnh hạ long Cái đẹp của Hạ Long trước hết là sự kì vĩ của thiên nhiên . Trên một diện tích hẹp mọc lên hàng nghìn đảo nhấp nhô khuất khúc như rồng chầu phượng múa . Đảo có chỗ sừng sững chạy dài như bức tường thành vững chãi , ngăn khơi với lộng , nối mặt biển với chân trời .Có chỗ đảo dàn ra thưa thớt , hòn này với hòn kia biệt lập , xa trong như quân cờ bày chon von trên mặt biển . Tuỳ theo sự phân bố của đảo , vịnh hạ long lúc toả mênh mông, lúc thu hẹp lại thành ao , thành vũng ,lúc bị kẹp giữa hai triền đảo như một dòng suối , lúc uốn quanh chân đảo như một dải lụa xanh . Tuy bốn mùa là vậy , nhưng mỗi mùa Hạ Long lại có những nét riêng biệt , hấp dẫn lòng người B . Nhân hoá I . Khái niệm là hiện tượng dùng các từ ngữ gọi, tả, nói ,với các đồ vật, cây cối ,con vật như nói với người khi nói viết trong văn bản cũng như trong giao tiếp gọi là nhân hoá II . Tác dụng của nhân hoá làm cho câu văn câu thơ như gần gũi với con người làm cho đồ vật, cây cối, con vật như mang tâm tư tình cảm của con người III . phân loại 1 nhóm nhân hoá con vật được gọi tả nói như con người Anh đom đóm Mặt trời gác núi Bóng tối tan dần Anh đóm chuyên cần Lên đèn đi gác Võ Quảng Ngày hội rừng xanh Chim gõ kiến nổi mỏ Công dẫn đầu đội múa Gà rừng gọi vòng quanh Khướu lĩnh xướng dàn ca Sáng rồi ,đừng ngủ nữa Kì nhông diẽn ảo thuật Nào , đi hội rừng xanh ! Thay đổi hoài màu da. Tre trúc thổi nhạc sáo Nấm mang ô đi hội Khe suối gảy nhạc đàn Tới suối, nhìn mê say Cây rủ nhau thay áo Ơ kìa, anh cọn nước Khoác bao màu tươi non Đang chơi trò đu quay ! Vương Trọng Cua càng thổi xôi Cua Càng đi hội Hai tay dụi mắt Cõng nồi trên lưng Tép chép miệng xong ! Vừa đi vừa thổi Chú Tôm về chậm Mùi xôi thơm lừng Dắt tay bà Cồng . Cái Tép đỏ mắt Hong xôi vừa chín Cậu ốc vặn mình Nhà đổ mái bằng Chú Tôm lật đật Trà pha thơm ngát Bà Sam cồng kềnh Mời ông Dã Tràng Tép chuyên nhóm lửa Dã Tràng móm mém Bà Sam dựng nhà Rụng hai chiếc răng Tôm đi chợ cá Khen xôi nấu dẻo Cậu ốc pha trà Có công Cua Càng . Nguyễn Ngọc Phú 2 Nhóm nhân hoá cây cối được gọi tả nói như con người Những chị lúa phất phơ bim tóc Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học Đàn cò áo trắng Khiêng nắng Qua sông Cô gió chăn mây trên đồng Bác mặt trời đạp xe qua ngọn núi Trần Đăng Khoa 3 Nhóm đồ vật được gọi tả nói như như con người Đồng hồ báo thức Bác kim giờ thận trọng Nhích từng li , từng li Anh kim phút lầm lì đi từng bước , từng bước Bé kim giây tinh ngịch Chạy vút lên trước hàng Ba kim cùng tới đích Rung một hồi chuông vang 3 nhóm nhân hoá các hiện tượng tự nhiên được gọi tả nói như con người Ông trời bật lửa Chị mây vừa kéo đến Trăng sao trốn cả rồi Đất nống lòng chờ đợi Xuống đi nào, mưa ơi Mưa !Mữa xuống thật rồi ! Đất hả hê uống nước Ông sấm vỗ tay cười Làm bé bừng tỉnh giấc Chớp bỗng loè chói mắt Soi sáng khắp ruộng vườn Ơ! Ông trời bật lửa Xem lúa vừa trổ bông . Đỗ Xuân Thanh Thì thầm Gió thì thầm với lá Trời mênh mông đến vậy Lá thì thầm cùng cây Đang thì thầm với sao Và hoa và ong bướm Sao trời tưởng im lặng Thì thầm điều chi đây Lại thì thầm cùng nhau Phùng Ngọc Hùng Mưa Mây đen lũ lượt Kéo về chiều nay Mặt trời lật đật Chui vào trong mây Chớp đông chớp tây Bà xỏ kim khâu Rồi mưa nặng hạt Chị ngồi đọc sách Cây lá xoè tay Mẹ làm bánh khoai Cứng làn nước mát Lửa reo tí tách Gió reo gió hát Chỉ thương bác ếch Giọng trầm giọng cao Lặn lội trong mưa Chớp dồn tiếng sấm Xem từng cụm lúa Chạy trong mưa rào Phất cờ lên chưa Trần Tám

dạy nhân hóa cho học sinh lớp 3